Bài: PGS.TS. Đinh Đức Trường – Trường ĐH Kinh tế Quốc dân
Ảnh: Shutterstock

Việt Nam là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ biến đổi khí hậu với thiệt hại do thiên tai hàng năm khoảng 1,8 – 2% GDP

Đầu tháng 6 năm 2023, hầu như mọi tờ báo ở Việt Nam đều đăng tin lần đầu tiên một chiếc SUV điện do Việt Nam sản xuất “giành ngôi vương doanh số” của phân khúc cực kỳ cạnh tranh này tại Việt Nam. Đây là tin lớn của ngành ô tô – xe máy, nhưng ẩn sau nó còn là một thứ lớn lao hơn nhiều: Dấu hiệu vươn lên của kinh tế xanh.

Kinh tế xanh là xu hướng để Việt Nam duy trì các mục tiêu tăng trưởng

Thuật ngữ kinh tế xanh được sử dụng rộng rãi từ năm 2008 trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính và sự cần thiết phải “kích thích kinh tế xanh”. Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) định nghĩa: “Một nền kinh tế xanh là một nền kinh tế có lượng phát thải carbon thấp, sử dụng tài nguyên hiệu quả và bao trùm xã hội”. Ý nghĩa cốt lõi của kinh tế xanh là tăng trưởng kinh tế đảm bảo đồng thời hai mục tiêu là bảo vệ môi trường sống trong sạch và bền vững.

Thực tế, Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chiến lược quốc gia về Biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050, tuy nhiên, với phần đông doanh nghiệp, kinh tế xanh dường như vẫn là “cái gì đó quá mới”.

CON ĐƯỜNG PHẢI ĐI

Tại Hội nghị Thượng đỉnh Đối tác vì Tăng trưởng xanh và mục tiêu toàn cầu 2030, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã khẳng định, tăng trưởng xanh là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, và Việt Nam không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá và thiếu bền vững. Ông đồng thời nhấn mạnh, kinh tế xanh là nhu cầu tất yếu khách quan, là xu hướng để Việt Nam duy trì các mục tiêu tăng trưởng đã cam kết.

Thực tế, sau khi thực hiện Đổi mới năm 1986, tăng trưởng kinh tế Việt Nam luôn được duy trì ở mức 5-10% nhưng với mô hình tăng trưởng còn phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và thâm dụng lao động giá rẻ, cái giá phải trả cho ô nhiễm môi trường tại Việt Nam là tương đối lớn.

Theo Ngân hàng Thế giới World Bank, thiệt hại môi trường mỗi năm ở Việt Nam xấp xỉ 5% GDP. Việt Nam cũng là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu với thiệt hại do thiên tai hàng năm khoảng 1,8 – 2% GDP. Nếu không có các giải pháp ứng phó hiệu quả, thiệt hại này có thể lên tới 10% GDP vào năm 2050. Trong các khuyến cáo của Ngân hàng này với Việt nam về phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19, đầu tư cho tăng trưởng xanh là thông điệp được nhắc lại nhiều lần.

Chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, Việt Nam tất nhiên cần đi đầu trong các giải pháp chống biến đổi khí hậu và chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình truyền thống sang mô hình tăng trưởng xanh là tất yếu để Việt Nam có thể duy trì được tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường.

VIỆT NAM ĐÃ LÀM GÌ?

Bên cạnh hai chiến lược quốc gia nói trên, Thủ tướng Chính phủ đã cho thấy quyết tâm chính trị của Việt Nam khi cam kết về Phát thải ròng bằng 0 đến năm 2050 tại Hội nghị Thượng đỉnh Biến đổi khi hậu (COP 26) năm 2021 tại Glasgow, Vương quốc Anh.

Còn trong thực tế, Việt Nam hiện đã xây dựng được 750 tiêu chuẩn hướng tới thúc đẩy kinh tế xanh. Các kết quả khả quan đã đạt được của kinh tế xanh có thể kể đến: lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng giảm 12,9% so với phương án phát triển thông thường; tiêu hao năng lượng tính trên GDP giảm bình quân 1,8%/ năm giai đoạn 2014-2020; tỷ lệ doanh nghiệp công nghiệp có nhận thức về sản xuất sạch hơn đã tăng từ 28% năm 2010 lên 46,9% năm 2020. Các giải pháp giảm phát thải khí nhà kính được triển khai rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực. Hoạt động xanh hóa sản xuất đã được chú trọng và đã xuất hiện làn sóng đầu tư năng lượng xanh như điện gió, điện rác, điện mặt trời.

Chuyển đổi mô hình kinh tế xanh đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam

Năm 2022, Việt Nam đã lọt vào TOP 10 quốc gia có đầu tư vào năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới, với 7,4 tỷ USD và vượt qua cả Đức và Pháp. Riêng về tiếp cận điện năng, World Bank đánh giá Việt Nam đứng thứ 27/190 nền kinh tế của thế giới. Công ty tư vấn toàn cầu McKinsey cho rằng Chính phủ Việt Nam có thể đặt ra một lộ trình sử dụng năng lượng tái tạo mạnh mẽ hơn, mở ra cơ hội tiết kiệm 10% chi phí điện năng tổng thể, cắt giảm 1,1 tỷ tấn phát thải khí nhà kính.

Nguồn đầu tư cho môi trường cũng đã tăng lên đáng kể. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, nguồn ngân sách cho bảo vệ môi trường năm 2021tăng 55,8% so với năm 2015, đạt mức 21,2 ngàn tỷ đồng. Tổng ngân sách sự nghiệp bảo vệ môi trường luôn được đảm bảo bố trí không thấp hơn 1% tổng chi ngân sách nhà nước.

Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích nguồn vốn xã hội hóa đầu tư vào bảo vệ môi trường, do đó đã bước đầu hình thành một hệ thống dịch vụ môi trường ngoài công ích. Một số lĩnh vực dịch vụ môi trường phát triển mạnh như: thu gom, vận chuyển rác thải, xây dựng cơ sở xử lý rác thải, thu gom, vận chuyển chất thải rắn nguy hại (kể cả chất thải y tế), xử lý nước thải sinh hoạt tập trung, xử lý nước thải sinh hoạt quy mô nhỏ phân tán.

CÒN ĐÓ NHIỀU THÁCH THỨC

Chuyển đổi mô hình kinh tế không phải chuyện một sớm một chiều. Việt Nam hiện phải đối mặt rất nhiều thách thức trong định hướng tới mục tiêu một nền kinh tế xanh.

Đầu tiên, kinh tế xanh đòi hỏi đầu tư rất lớn của xã hội để chuyển đổi những yếu tố cốt lõi của tăng trưởng như năng lượng, máy móc thiết bị, con người và các hệ thống quản lý. Ví dụ, để thực hiện các mục tiêu chuyển đổi sang năng lượng sạch trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam sẽ cần tới hơn 500 tỷ USD để đầu tư phát triển cho cả nguồn và lưới điện trong 30 năm tới.

Huy động nguồn lực tài chính cho tăng trưởng xanh là một thách thức không nhỏ. Nguồn ngân sách của Nhà nước khá hạn chế và còn phải chi tiêu cho nhiều mục tiêu khác nhau. Các doanh nghiệp Việt Nam đa phần có qui mô nhỏ và vừa, rất khó có nguồn vốn dồi dào để chuyển đổi phương thức sản xuất.

Thứ hai, Việt Nam vẫn cần thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để tăng trưởng và tạo ra thu nhập cho các địa phương. FDI một mặt mang lại những giá trị kinh tế, tạo công ăn việclàm và chuyển đổi cơ cấu ngành nhưng mặt khác cũng làm cho dòng “ô nhiễm” và công nghệ lạc hậu chuyển dịch đến Việt Nam do các tiêu chuẩn môi trường và hệ thống giám sát tại nước ta còn hạn chế. Việc chuyển dịch ô nhiễm giúp cho các công ty FDI tiết kiệm được các chi phí môi trường, chi phí sản xuất trong khi người dân và cộng đồng sẽ phải trả giá cho sự ô nhiễm này.

Ngoài ra, trong một thời gian dài, mô hình tăng trưởng của nước ta phụ thuộc vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và không dễ để chuyển dịch mô hình này sang các nhân tố thay thế như lao động chất lượng cao, công nghệ hay tài chính.

Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới và các định chế thương mại song phương, đa phương. Những tiêu chuẩn về môi trường tại các thị trường quan trọng như Mỹ, Nhật Bản, EU đang ngày càng khắt khe và cao hơn. Trong tương lai gần, Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) được cảnh báo sẽ tác động nhiều tới doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU, đặc biệt trong các lĩnh vực có nguy cơ phát thải cao như: thép, nhôm, lọc dầu, xi măng, giấy, thủy tinh, phân bón, năng lượng.