Vũ Thị Hằng
Hoa Lư có vẻ đẹp thiên nhiên kỳ ảo, du khách tham quan khu di tích cố đô Hoa Lư nằm trong quần thể danh thắng Tràng An không chỉ được ngắm nhìn vẻ tráng lệ của núi hoa, sông gấm mà còn có thể dễ dàng tìm hiểu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật địa phương. Các Bảo vật Quốc gia ở cố đô Hoa Lư đều gắn với sự tồn tại và phát triển của hai triều đại Đinh (968-980) và Tiền Lê (980-1009).

Năm 973, Đinh Khuông Liễn cho dựng 100 cột kinh tràng khắc âm tiếng Phạn bài chú Phật Đỉnh Tôn Thắng Đà la ni (Usnisa vijàya dhàrani) để cầu chúc cho Đại Thắng Minh Hoàng đế (vua cha Đinh Tiên Hoàng), cầu siêu cho em trai, sám hối và cầu thọ cho bản thân. Cột kinh Phật được chế tác từ đá xanh, cao khoảng 140cm. Mỗi cột kinh được cấu tạo gồm 6 phần: tảng kê chân cột, đế cột, thân cột, thớt đệm, đài sen và búp sen, được lắp gá với nhau bằng phương pháp ghép mộng. Các cột kinh Phật được dựng trong khoảng từ năm 973 đến 979. Những cột kinh đầu tiên được phát hiện năm 1963, sau đó rải rác tìm được ở các khu vực thuộc cố đô Hoa Lư được bảo tàng Ninh Bình sưu tầm, lưu giữ và trưng bày.
Năm 995, vua Lê Đại Hành cho dựng cột kinh tại chùa Nhất Trụ. Cách thức cấu tạo không khác nhiều so với bộ cột kinh thời Đinh, nhưng cột kinh tìm được có kích thước lớn, chiều cao toàn cột 4,16m, nặng khoảng 4,5 tấn. Thân cột được khắc kinh Thủ Lăng Nghiêm với nội dung ca ngợi sự bền vững của Đức Phật và tài năng to lớn bao trùm của Phật Như Lai, đồng thời thể hiện mong muốn cầu quốc thái dân an, triều đình vững mạnh thể hiện sự tin tưởng, nhiệm màu của Phật pháp.
Những cột kinh thời Đinh và Tiền Lê là minh chứng cho sự thịnh trị của đạo Phật ở Việt Nam thời kỳ lập quốc. Với những giá trị độc đáo về nghệ thuật điêu khắc, giá trị lịch sử, văn hóa, bộ sưu tập cột kinh thời Đinh và cột kinh chùa Nhất Trụ là hiện vật quý giá đều đã được xếp hạng Bảo vật Quốc gia.
Cách chùa Nhất Trụ không xa, đền vua Đinh, đền vua Lê được đặt ở cạnh nhau ở trung tâm có đô Hoa Lư, giữa một quần thể núi sông hiền hòa. Tương truyền hai ngôi đền này được xây dựng trên nền cung điện xưa. Đây có thể xem là những bảo tàng lịch sử, nghệ thuật thu nhỏ khi tại hai địa điểm này đều lưu giữ những Bảo vật Quốc gia có giá trị văn hóa, lịch sử, nghệ thuật cao.

Cặp long sàng ở đền vua Đinh với một chiếc đặt ở trước nghi môn ngoại, một chiếc đặt trước bái đường. Long sàng bằng đá đặt trước bái đường được làm vào đời Chính Hòa (1680-1705), phần thân phía trên là khối hộp chữ nhật đặt trên đế sập giật cấp hai tầng. Hình thức trang trí trên long sàng khá phong phú với các hình vân xoắn, hoa chanh, hoa cúc, tôm, cá và linh thú. Đáng lưu ý nhất là hình tượng một con rồng lớn, chiếm toàn bộ mặt long sàng. Điểm đặc biệt ở con rồng này là có những bàn chân rồng được tạo hình đẹp, mềm mại trong hình thức bàn tay người. Bên cạnh sập đá, hai con rồng đá được tạc theo hình thức tượng tròn đặt sát hai bên thành sập làm gia tăng tính chất uy nghi, tôn nghiêm nơi thờ tự. Chiếc long sàng ở trước nghi môn ngoại đền vua Đinh có hình thức khá giống với long sàng trước sân bái đường, tuy vậy, đường nét chạm khắc mềm mại, nổi khối nhẹ, phong cách nghệ thuật muộn hơn, vào khoảng thế kỷ 18.
Ngoài cặp long sàng có giá trị nghệ thuật cao, đền vua Đinh còn có cặp phủ việt được chế tác tinh xảo. Theo nghĩa Hán Việt, Phủ việt (斧 鉞) là cái rìu, búa lớn. Khi được sử dụng làm đồ thờ, phủ việt là một hình thức vũ khí có tính tượng trưng. Loại hình hiện vật này thường được đặt trong các đền thờ những nhân vật (thần linh) có nhiều chiến công hiển hách. Hai chiếc phủ việt có hình thức giống nhau, đặt đối xứng. Phần thân rìu lớn, được trang trí hình rồng theo đề tài rồng mẫu tử: năm rồng con cuốn quanh thân rồng mẹ. Lưỡi phủ việt có hình thức là một viên ngọc đang bị rồng mẹ há miệng nuốt dở. Viên ngọc phát ra ánh sáng chói, bằng những tia sáng hình lưỡi lửa. Đầu phủ việt có ba chạc nổi lên được tạo dáng từ những đuôi rồng vút nhọn. Hình thức chạm khắc, trang trí mang đậm phong cách nghệ thuật thế kỷ 17.

Đôi phủ việt ở đền vua Lê có niên đại muộn hơn, vào khoảng nửa đầu thế kỷ 18. Cặp phủ việt này cũng có hình thức giống nhau, đặt đối xứng. Sự khác biệt ở đôi phủ việt đền vua Lê so với đền vua Đinh không chỉ ở phong cách nghệ thuật mà còn ở cách bố cục, trang trí thân và lưỡi phủ việt. Toàn bộ phủ việt được tạo thành một chỉnh thể đăng đối. Lưỡi phủ việt được tạo hình cân bằng, đối xứng với khúc thân rồng uốn cong. Mặt lưỡi phủ việt chạm đầy vân mây, tia sáng cân xứng với các vân mây, tia sáng được trang trí ở khúc thân rồng nên phải quan sát kĩ mới nhận diện được nửa viên ngọc đang bị con rồng lớn nuốt chửng. Đỉnh phủ việt là một khối được tạo bởi hai con rồng nhỏ và một mặt hổ phù đang há miệng rất rộng. Kỹ thuật chạm trổ được thực hiện kỹ lưỡng dưới dạng chạm nổi, chạm thủng, chạm bong.
Hình tượng rồng ở hai cặp phủ việt đền vua Đinh và đền vua Lê đều gợi nhắc tới các truyền thuyết về rồng nuốt mặt trăng. Rồng là biểu tượng của sức mạnh thần thánh, sự quyền quý, tôn kính và đem đến phúc lành. Hình tượng rồng gắn với viên ngọc là vị thần chăm lo cho việc mưa gió của cả vùng. Hình tượng này được sử dụng rộng khắp trong các mô típ chạm khắc, trang trí kiến trúc, trên đồ thờ của người Việt, phản ánh tâm thức nông nghiệp cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Với những giá trị văn hóa, nghệ thuật đặc biệt, hai cặp phủ việt đền vua Đinh và đền vua Lê đều được công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Các hiện vật ở cố đô Hoa Lư được công nhận là Bảo vật Quốc gia không chỉ mang tính nghệ thuật độc đáo mà còn là nguồn tư liệu quý để các thế hệ hôm nay và mai sau có thể học tập, tìm hiểu truyền thống, lịch sử của dân tộc.
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: